Tu Hội Nữ Tử Bác Ai (NTBA) được thành lập bởi Thánh Vincent de Paul (Vinh Sơn Phaolô) và Thánh nữ Louise De Marillac (Lu I Sa) vào ngày 29.11.1633 và Tu Hội được Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX chính thức phê chuẩn ngày 08.06.1668.
Thánh Vinh Sơn Phaolô sinh ngày 24.04.1581 tại làng Pouy miền Landes nước Pháp. Sau khi học xong trường làng, cậu được gởi lên tỉnh, làm nghề gia sư để kiếm tiền học tiếp.
Năm 19 tuổi Vinh Sơn được thụ phong linh mục. Sau đó cha tiếp tục học đại học và đã đậu cử nhân giáo luật. Cha tìm kiếm một công việc khả dĩ đem lại nguồn lợi vật chất khá để giúp đỡ gia đình. Sau đó, cha đã có nhiều kinh nghiệm về thành công cũng như thất bại trong đời sống linh mục để đạt tới sự hiểu biết về ý Chúa và sứ mạng của cha trong Giáo Hội.
Tuy nhiên, cha đã bị khủng hoảng đức tin. Thiên Chúa dùng biến cố này để thanh luyện cha, cho cha thấy được rằng ơn gọi của cha là "Truyền giáo và Phục vụ người nghèo" chứ không phải là thăng tiến bản thân và làm giàu cho gia đình.
Trong thời điểm đó, ở Pháp, nhiều người nghèo không được chăm sóc, như: tù nhân khổ sai, bệnh nhân, hành khất, dân nghèo ở khắp nơi, trẻ em bị bỏ rơi..v..v. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, cha Vinh Sơn đã khám phá ra nỗi khốn khổ về vật chất và tinh thần của thời đại, và đã tận hiến cuộc đời để phục vụ và rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, những người mà ngài gọi là “Chúa và Thầy”. Để thực hiện điều đó, ngài đã: Thành lập các Hội Bác Ái (1617) để các giáo dân góp sức trong sứ mệnh phục vụ người nghèo. Năm 1625, thành lập Tu Hội Truyền Giáo để đào tạo các linh mục. Trong khoảng thời gian này, ngài gặp bà Louise de Marillac (Lu I Sa), một phụ nữ đạo đức, goá chồng, và mời bà tham gia hoạt động từ thiện của ngài.
Thánh Lu I Sa sinh ngày 12.08,1591, là con của ông Louis de Marillac, thuộc dòng dõi quí tộc nước Pháp. Khi còn nhỏ, cô được gửi nội trú tại dòng Đa Minh ở Poissy. Năm 15 tuổi, cô ao ước trở thành nữ tu dòng Capucine, nhưng không được vì thiếu sức khỏe. Cha bề trên đã nói: “Thiên Chúa có ý định khác trên con”.
Ngày 05.03.1613, cô thành hôn với ông Antoine Legras, thư ký của hoàng hậu Marie de Médicis. Bà sống hạnh phúc với chồng và có một con trai. Nhưng thời gian này chỉ kéo dài 9 năm rồi chồng bị bệnh và cậu con trai chậm phát triển trí tuệ. Những sự việc này khiến bà lo lắng và tự hỏi có phải đó là hình phạt vì bà đã không giữ lời hứa trở thành nữ tu Capucine.
Lễ Chúa Lên Trời năm 1623, bà bị dằn vặt bởi mối hoài nghi :Có nên bỏ chồng để thực hiện lời hứa xưa và để được tự do phục vụ Chúa và tha nhân chăng ?"
Bà quay cuồng trong màn đen tối dày đặc suốt 10 ngày. Lễ Hiện Xuống 04.06.1623, mọi sự được biến đổi: Trong khi tham dự thánh lễ, một luồng ánh sáng linh thiêng đã tràn ngập lòng bà, trả lại cho bà niềm vui và sự bình an của Thiên Chúa. Bà nhận được lời đáp trả rõ rệt cho thắc mắc trên: Phải ở lại với chồng. Bà được thoáng thấy có ngày bà được khấn giữ khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục, sẽ được cùng với các chị em sống tận hiến cho Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Ngày 21.12.1625, ông Legras qua đời. Năm 1629, bà tham gia vào việc phục vụ người nghèo của cha Vinh Sơn trong các Hội Bác Ái ở Pháp.
Từ năm 1630 - 1633, nhiều cô gái thôn quê đến xin cha Vinh Sơn đi phục vụ người nghèo. Cha đã giao các cô này cho bà Louise de Marillac đào tạo. Ngày 29.11.1633, bà đón tiếp và qui tụ các cô tại nhà bà để hướng dẫn họ.
Ngày lễ Truyền Tin 25.03.1634, bà tuyên khấn thuộc trọn về Chúa và người nghèo. Tu Hội ngày càng lớn mạnh ở Pháp, Ba Lan và các nước khác. Dù có những lúc Tu Hội gặp nhiều khó khăn nhưng bà tin tưởng vào Chúa Ba Ngôi và lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã giúp bà vững tay lèo lái Tu Hội.
Cha Vinh Sơn Phaolô được Chúa gọi về trong tư thế ngồi cầu nguyện như cha hằng mong ước vào ngày 27.9.1660.
Cha được phong chân phước năm 1729 và được tôn phong hiển Thánh năm 1737.
Ngày 02.05.1885, Đức Giáo Hoàng Leo XIII chọn ngài làm bổn mạng các tổ chức từ thiện.
Bà Lu I Sa được Chúa gọi về sống trong tình yêu vĩnh cửu của Người ngày 15.3.1660.
Ngày 09.05.1934, Đức Giáo Hoàng Piô XI phong Thánh cho bà Louise de Marillac.
Tháng 02.1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tuyên phong bà làm quan thầy của tất cả những ai dấn thân trong công tác xã hội theo tinh thần Kitô giáo.
Bài: Sưu tầm & Biên tập